– Hiền đệ nói đúng. Tôi đã bị nhốt trong cung với chú tôi là vua Duệ Tôn cùng các con của người. Tôi không trông thấy thế giới bên ngoài trong suốt mười tám năm trường (từ năm 680 đến 698) kể từ năm tôi mới lên mười. Trong suốt thời gian đó tôi đã chứng kiến rất nhiều.
– Hình dáng bà ra sao?
– Tôi bị nhốt trong cung từ thời ông nội chúng ta (vua Cao Tôn) còn tại thế. Hồi đó ông nội đã suy yếu nhiều, luôn luôn phải nằm và quấn vải quanh đầu vì mắc chứng nhức đầu. Bà nội thì đã mấp mé lục tuần nhưng hãy còn khương kiện lắm. Chính sự khang kiện nãy đã làm cho nhà vua suy nhược. Bà có trán vuông, hàm lớn và lông mi rất đen. Tôi mường tượng là hồi trẻ bà đẹp lắm. Tôi không biết bà đã uống thứ thuốc bổ gì. Chắc nhà sư mất trí, người yêu của bà. Đã cho bà những thứ thuốc bí mật. Dù sao đời bà thực sự bắt đầu vào tuổi sáu mươi, khi ông nội mất, và bà bước vào cuộc sống dâm loạn. Trước đó bà cũng có nhiều nhân tình, phần lớn là những tay tà đạo được gọi vào cung hàng đêm nhưng không như giai đoạn này…Đáng sợ nhất là khi bà giận dữ, mắt bà trở nên xanh biếc.
– Tôi thấy Công chúa Thái Bình đôi khi cũng vậy.
– Công chúa rất giống mẹ. Hai người hầu như rập khuôn về tính tình, quan điểm sắc dục, tài nặng và vẻ mặt. Ta có thể nhìn Công chúa mà tưởng tượng ra con người của bà nội khi còn trẻ. Hồi trước Công chúa rất thanh tú, tới năm ba mươi tuổi thân hình mới hơi đẩy đà và có dáng đi giống bà nội. Công chúa hơn tôi năm tuổi. Vào tuổi mười bảy, mười tám, Công chúa rất hung hãn, thường ăn mặc như con trai…
Thế rồi Công Chúa lấy chồng, nhưng có chồng hay không cũng thế thôi. Một thị nữ kể cho Công chúa nghe về sự dẻo dai của một tên mãi võ. Thế là hắn được vào gặp Công chúa ngay. Chính Công chúa đã giới thiệu hắn lại cho mẹ và bà mẹ đã cùng hắn, chung gối (lúc này vua Cao Tôn đã mất). Công chúa lấy họ cha chồng mà đặt cho hắn và bảo hắn giả làm cha nuôi của chồng để có lý do lui tới thân mật. Thật ra tên hắn là Phong nhưng thường được gọi là “Bé Cưng”. Thật là khôi hài. Người hắn lừng lửng như một khúc cây và ngôn từ của hắn thì thực là thô bỉ, thứ ngôn từ của những kẻ mãi võ. Hắn có đôi tay cuồn cuộn bắp thịt, một chiếc cổ rất manh và đôi vai rộng. Trước khi hắn gọt đầu làm hoà thượng trụ trì đền Bạch Mã, tóc hắn rất đen, rậm và cứng. Tính tình cũng như điệu bộ hắn có vẽ nghênh ngang phách lối. Hồi đó hắn được tự do ra vào khu vực của các bà với tư cách một quốc sư đại diện tôn giáo. Người ta không biết nói làm sao khi trông thấy hắn vênh vang trong bộ áo tụ hành màu tía, nhảy lên lưng ngựa từ chuồng ngựa của nhà vua và tiếp lấy dây cương do mấy người cháu của Võ Hậu dâng lên.
– Tại sao họ lại gọi hắn là “Bé Cưng”?
– Điều đó dễ hiểu. Họ gọi như vậy cho có vẻ âu yếm vì hai mẹ con Võ Hậu rất cưng cái vật “bé nhỏ quý giá” kia. Chính vật đó là nhản hiệu của hắn, chìa khoá giúp hắn ra vào khuê phòng của các bà.
Khi gọt đầu làm sư hắn có pháp hiệu là Hoài Nghĩa.
– Tại sao công chúa lại sai người giết hắn?
– Đó là mãi về sau, khi Võ Hậu có người tình mới, một thầy thuốc họ Trầm, thì hắn phát khùng vì ghen tức, rồi bệnh điên của hắn càng ngày càng trầm trọng. Hắn phỏng hoả đốt thiền viện của hắn. Võ Hậu tìm cách che đậy cho hắn nhưng hắn tỏ ra hỗn xược không thể tha thứ được. Dạo đó việc tư thông giữa hai người được đồn đại khắp các đường phố. Vì trong khi đem Hà Tường Hiển ra hành thích, đi được nữa đường ông vùng bõ chạy và rêu rao khắp phố về hành vi của Võ Hậu. ông nói cho sướng miệng trước khi chết. Công chúng say sưa lặng nghe và những chuyện nhớp nhúa của Võ Hậu và Công chúa không còn gì là bí mật nữa.
Sau vụ nầy các tử tội đều bị bịt miệng khi đem ra pháp trường, nhưng dù sao cũng đã muộn. Ở những nơi quyền quí, cao sang, người ta còn có thể bưng bít hay bịt miệng nhau về những chuyện bỉ ổi ; chứ còn đã lộ ra nơi công chúng, miệng tiếng thế gian có trời giữ.
Khi cảm thấy không thể tha thứ cho nhà sư điên kia nữa, Võ Hậu và Công chúa đặt kế lừa hắn đến vườn thượng uyển rồi cho một đám thị nữ khoẻ mạnh xông vào bắt trói và xiết cổ cho chết.
Sau đó Võ Hậu tuyển được anh em họ Trương rất xinh trai.
Lúc này bà đã ngoài bảy mươi. Bà mọc thêm một chiếc răng khôn, và nhiều người lại đồn bà mọc thêm lông mày phụ, nhưng chính mắt tôi không trông thấy.
Bà thật là một người kỳ dị. Cuộc đời mới của bà bắt đầu vào tuổi sáu mươi. Phải, và tiếp tục cho đến năm tám mươi, khi mà thuốc kích thích cũng như cơ thể đều trở nên vô dụng.
– Tôi nghe nhiều người kể là bà tư thông với tên mãi võ từ khi bà còn tu tại chùa Hưng Long?
– Không phải vậy đâu. Đó chỉ là lời đồn nhảm. Khi Công chúa tìm ra hắn thì hắn mới vào khoảng ngoài ba mươi và Công chúa lúc ấy mười tám. Thời kỳ Võ Hậu tu ở chùa Hưng Long thì có lẻ hắn vừa mới ra đời.
– Như vậy đại huynh lại càng cần phải viết. Đại huynh biết tất cả những chuyện mà người khác không biết. Hoàng Thượng có biết đại huynh đang viết sách không?
– Không. Tôi chưa nói cho Hoàng Thượng hay. Hoàng Thượng sẽ không cản được tôi vì tôi không khác gì môt người anh của ngài. Nhưng dù sao, Hoàng thượng cũng phải ngăn vì ngài là Hoàng Đế, cần tỏ lòng tôn kính đối với tiền nhân, dù lòng tôn kính đó chỉ là tưởng tượng. Chính thân mẫu ngài, Hoàng hậu của vua Duệ Tôn, đã bị Võ Hậu ám sát. Khi ngài lên ngôi, ngài muốn cãi táng mẹ theo đúng nghi lễ. Nhưng ngài đã không tìm thấy di hài mẹ, thậm chí ngài không biết mẹ mình có được chôn theo hay không? Ngài chỉ biết tự nhiên bà mất tích. Ngài đành phải làm lễ an táng không có hài cốt chỉ có một bộ quần áo của bà bõ trong áo quan. Nếu ngài biết chuyện viết sách của tôi, tôi sẽ tâu rằng tôi chỉ kể chuyện tranh chấp giữa họ Lý và họ võ mà thôi. Vã lại chính ngài là người đã “đảo chính” và giết hết giòng họ Võ. Chính ngài đã ép Công chúa phải tự sát.
Nhiều người thường so sánh Võ Hậu với Lữ Hậu, vợ của Hán Cao Tổ. Hai người cùng dâm đảng như nhau. Trong lịch sử còn ghi rõ “Lữ Hậu” thường tìm những đàn ông có dương vật vĩ đại về ân ái. Nhưng đó chỉ là chuyện riêng tư, không liên quan đến chính trị. Trường hợp của Võ Hậu cũng chỉ có tính cách tâm lý, nhưng tình cờ nó lại biến thành một vụ lem nhem có tính cách chính trị. Có lẻ bà cũng đã cố đặt chuyện tình cảm của bà trong vòng riêng tư, nhưng chẳng may bà phóng túng quá lố, bà thêu dệt giai thoại cho bà là hiện thân của “Phật Cười” hiện xuống để phục vụ “vật vĩ đại” của một nhà sư.
Kết quả, chuyện tình của bà thành một sự pha trộn giữa xác thịt và tôn giáo. vừa thối tha lại vừa đẹp đẻ.
– Hình dáng bà ra sao?
– Tôi bị nhốt trong cung từ thời ông nội chúng ta (vua Cao Tôn) còn tại thế. Hồi đó ông nội đã suy yếu nhiều, luôn luôn phải nằm và quấn vải quanh đầu vì mắc chứng nhức đầu. Bà nội thì đã mấp mé lục tuần nhưng hãy còn khương kiện lắm. Chính sự khang kiện nãy đã làm cho nhà vua suy nhược. Bà có trán vuông, hàm lớn và lông mi rất đen. Tôi mường tượng là hồi trẻ bà đẹp lắm. Tôi không biết bà đã uống thứ thuốc bổ gì. Chắc nhà sư mất trí, người yêu của bà. Đã cho bà những thứ thuốc bí mật. Dù sao đời bà thực sự bắt đầu vào tuổi sáu mươi, khi ông nội mất, và bà bước vào cuộc sống dâm loạn. Trước đó bà cũng có nhiều nhân tình, phần lớn là những tay tà đạo được gọi vào cung hàng đêm nhưng không như giai đoạn này…Đáng sợ nhất là khi bà giận dữ, mắt bà trở nên xanh biếc.
– Tôi thấy Công chúa Thái Bình đôi khi cũng vậy.
– Công chúa rất giống mẹ. Hai người hầu như rập khuôn về tính tình, quan điểm sắc dục, tài nặng và vẻ mặt. Ta có thể nhìn Công chúa mà tưởng tượng ra con người của bà nội khi còn trẻ. Hồi trước Công chúa rất thanh tú, tới năm ba mươi tuổi thân hình mới hơi đẩy đà và có dáng đi giống bà nội. Công chúa hơn tôi năm tuổi. Vào tuổi mười bảy, mười tám, Công chúa rất hung hãn, thường ăn mặc như con trai…
Thế rồi Công Chúa lấy chồng, nhưng có chồng hay không cũng thế thôi. Một thị nữ kể cho Công chúa nghe về sự dẻo dai của một tên mãi võ. Thế là hắn được vào gặp Công chúa ngay. Chính Công chúa đã giới thiệu hắn lại cho mẹ và bà mẹ đã cùng hắn, chung gối (lúc này vua Cao Tôn đã mất). Công chúa lấy họ cha chồng mà đặt cho hắn và bảo hắn giả làm cha nuôi của chồng để có lý do lui tới thân mật. Thật ra tên hắn là Phong nhưng thường được gọi là “Bé Cưng”. Thật là khôi hài. Người hắn lừng lửng như một khúc cây và ngôn từ của hắn thì thực là thô bỉ, thứ ngôn từ của những kẻ mãi võ. Hắn có đôi tay cuồn cuộn bắp thịt, một chiếc cổ rất manh và đôi vai rộng. Trước khi hắn gọt đầu làm hoà thượng trụ trì đền Bạch Mã, tóc hắn rất đen, rậm và cứng. Tính tình cũng như điệu bộ hắn có vẽ nghênh ngang phách lối. Hồi đó hắn được tự do ra vào khu vực của các bà với tư cách một quốc sư đại diện tôn giáo. Người ta không biết nói làm sao khi trông thấy hắn vênh vang trong bộ áo tụ hành màu tía, nhảy lên lưng ngựa từ chuồng ngựa của nhà vua và tiếp lấy dây cương do mấy người cháu của Võ Hậu dâng lên.
– Tại sao họ lại gọi hắn là “Bé Cưng”?
– Điều đó dễ hiểu. Họ gọi như vậy cho có vẻ âu yếm vì hai mẹ con Võ Hậu rất cưng cái vật “bé nhỏ quý giá” kia. Chính vật đó là nhản hiệu của hắn, chìa khoá giúp hắn ra vào khuê phòng của các bà.
Khi gọt đầu làm sư hắn có pháp hiệu là Hoài Nghĩa.
– Tại sao công chúa lại sai người giết hắn?
– Đó là mãi về sau, khi Võ Hậu có người tình mới, một thầy thuốc họ Trầm, thì hắn phát khùng vì ghen tức, rồi bệnh điên của hắn càng ngày càng trầm trọng. Hắn phỏng hoả đốt thiền viện của hắn. Võ Hậu tìm cách che đậy cho hắn nhưng hắn tỏ ra hỗn xược không thể tha thứ được. Dạo đó việc tư thông giữa hai người được đồn đại khắp các đường phố. Vì trong khi đem Hà Tường Hiển ra hành thích, đi được nữa đường ông vùng bõ chạy và rêu rao khắp phố về hành vi của Võ Hậu. ông nói cho sướng miệng trước khi chết. Công chúng say sưa lặng nghe và những chuyện nhớp nhúa của Võ Hậu và Công chúa không còn gì là bí mật nữa.
Sau vụ nầy các tử tội đều bị bịt miệng khi đem ra pháp trường, nhưng dù sao cũng đã muộn. Ở những nơi quyền quí, cao sang, người ta còn có thể bưng bít hay bịt miệng nhau về những chuyện bỉ ổi ; chứ còn đã lộ ra nơi công chúng, miệng tiếng thế gian có trời giữ.
Khi cảm thấy không thể tha thứ cho nhà sư điên kia nữa, Võ Hậu và Công chúa đặt kế lừa hắn đến vườn thượng uyển rồi cho một đám thị nữ khoẻ mạnh xông vào bắt trói và xiết cổ cho chết.
Sau đó Võ Hậu tuyển được anh em họ Trương rất xinh trai.
Lúc này bà đã ngoài bảy mươi. Bà mọc thêm một chiếc răng khôn, và nhiều người lại đồn bà mọc thêm lông mày phụ, nhưng chính mắt tôi không trông thấy.
Bà thật là một người kỳ dị. Cuộc đời mới của bà bắt đầu vào tuổi sáu mươi. Phải, và tiếp tục cho đến năm tám mươi, khi mà thuốc kích thích cũng như cơ thể đều trở nên vô dụng.
– Tôi nghe nhiều người kể là bà tư thông với tên mãi võ từ khi bà còn tu tại chùa Hưng Long?
– Không phải vậy đâu. Đó chỉ là lời đồn nhảm. Khi Công chúa tìm ra hắn thì hắn mới vào khoảng ngoài ba mươi và Công chúa lúc ấy mười tám. Thời kỳ Võ Hậu tu ở chùa Hưng Long thì có lẻ hắn vừa mới ra đời.
– Như vậy đại huynh lại càng cần phải viết. Đại huynh biết tất cả những chuyện mà người khác không biết. Hoàng Thượng có biết đại huynh đang viết sách không?
– Không. Tôi chưa nói cho Hoàng Thượng hay. Hoàng Thượng sẽ không cản được tôi vì tôi không khác gì môt người anh của ngài. Nhưng dù sao, Hoàng thượng cũng phải ngăn vì ngài là Hoàng Đế, cần tỏ lòng tôn kính đối với tiền nhân, dù lòng tôn kính đó chỉ là tưởng tượng. Chính thân mẫu ngài, Hoàng hậu của vua Duệ Tôn, đã bị Võ Hậu ám sát. Khi ngài lên ngôi, ngài muốn cãi táng mẹ theo đúng nghi lễ. Nhưng ngài đã không tìm thấy di hài mẹ, thậm chí ngài không biết mẹ mình có được chôn theo hay không? Ngài chỉ biết tự nhiên bà mất tích. Ngài đành phải làm lễ an táng không có hài cốt chỉ có một bộ quần áo của bà bõ trong áo quan. Nếu ngài biết chuyện viết sách của tôi, tôi sẽ tâu rằng tôi chỉ kể chuyện tranh chấp giữa họ Lý và họ võ mà thôi. Vã lại chính ngài là người đã “đảo chính” và giết hết giòng họ Võ. Chính ngài đã ép Công chúa phải tự sát.
Nhiều người thường so sánh Võ Hậu với Lữ Hậu, vợ của Hán Cao Tổ. Hai người cùng dâm đảng như nhau. Trong lịch sử còn ghi rõ “Lữ Hậu” thường tìm những đàn ông có dương vật vĩ đại về ân ái. Nhưng đó chỉ là chuyện riêng tư, không liên quan đến chính trị. Trường hợp của Võ Hậu cũng chỉ có tính cách tâm lý, nhưng tình cờ nó lại biến thành một vụ lem nhem có tính cách chính trị. Có lẻ bà cũng đã cố đặt chuyện tình cảm của bà trong vòng riêng tư, nhưng chẳng may bà phóng túng quá lố, bà thêu dệt giai thoại cho bà là hiện thân của “Phật Cười” hiện xuống để phục vụ “vật vĩ đại” của một nhà sư.
Kết quả, chuyện tình của bà thành một sự pha trộn giữa xác thịt và tôn giáo. vừa thối tha lại vừa đẹp đẻ.
Chúng ta không nên đi quá xa về đề tài đàn bà và chính trị, nhưng phải công nhận rằng khi đàn bà nắm quyền, bản tính tham lam của họ đáng sợ và tai hại hơn đàn ông. Cứ lấy ví dụ trong ba đời vua vừa qua. Ái hậu của vua Thái Tôn, như mọi người đều biết, đã giúp đỡ vua rất nhiều. Bà chính là nguồn năng lực của vua Bà thật vĩ đại vì bà diệu hiền và biết thương người. Bà thường ở bên vua mỗi khi vua giận dữ hay bất công đối với quần thần. Bà thường khuyên vua đừng bao giò quên những bề tôi tận trung với chúa. Nhưng người đàn bà sẽ không còn diệu hiền, biết thương người khi họ có quyền.
Như trường hợp Võ Hậu dưới thời Cao Tôn, Vi Hậu giết chồng là Trung Tôn, con trai thứ ba của Võ Hậu, và các Công chúa con của võ Hậu đã lạm quyền thưởng phạt quần thần làm triều đình đảo lộn. Trong lịch sử không có triều đại nào lại đầy dẩy những vụ dâm loạn, ngoại tình, như dưới thời Trung Tôn và Duệ Tôn. Chắc hẳn Võ Hâu đã làm gương xấu cho con cháu.
Võ Hậu là một ví dụ hiển nhiên, và hơi cực đoan, về uy quyền của đàn bà. Bà không thua bất cứ bậc đế vương khanh tướng nào, về mặt trí tuệ, về cách dùng người, về đường lối linh động, và về sự bĩnh tĩnh. Tự bà đặt cho mình một lối đi đến tột đỉnh vinh quang.
Nhưng dù sao, ở một vài phương diện nào đó bà vẫn là một người đàn bà. Bà đã trả thù Vương Hậu một cách nhỏ mọn, vô nhân đạo, không khác loài cầm thú. Sự đố kỵ của bà đối với người đồng phái cũng đáng cho ta chú ý: Bà đã giết tất cả bốn người con dâu. Bà chuộng những tay phù thuỷ, đạo nhân, sư sải. Vì sự đòi hỏi của tình hình chính trị, bà đã đem hàng trăm vương tôn công tử, ra tàn sát. Sự vô nhân của bà phản ảnh bản tính độc ác của phái nữ, một hiện tượng mà đàn ông chúng ta thường suy ngẫm mà không hiểu nỗi. Việc bà cho người tạc một hình Phật cao hàng trăm thước, khiến tôi liên tưởng tới một em bé giàu óc tưởng tượng, đứng chơi búp bê. Vẫn biết trong mỗi người đàn bà đều có một chút trẻ con, nhưng nếu tính trẻ con đó kéo dài trong suốt tuổi già, trửng giỡn với hết nhà sư điên lại tới anh em họ Trương, với bao nhiêu giai thoại nhảm nhí, bịa ra để hí lộng quỉ thần, thì quả thực chúng ta phải lắc đầu.
“Âm” và “Dương” phải bỗ khuyết cho nhau. Nếu một cái thịnh quá, một cúi suy quá, cuộc sống không thể tiến triễn tốt đẹp.
Gà mái không nên gáy, đàn bà không thể làm công việc của đàn ông.
Tôi đã khuyên các Hoàng tử như vậy.
Đàn bà sinh ra để tìm chúng ta. Chúng ta thoả mản họ và ngược lại. Đó là luật của tạo hoá. Nói cách khác, nếu chúng ta là cá thì họ là người đi câu. Họ dùng đũ các thứ mồi để nhử chúng ta. Họ ước muốn một chỗ đứng trên trường đời, và sống một cuộc sống ấm no, an lạc. Để đạt mục đích, phương tiện duy nhất của họ là đàn ông.
Một vị thái tử sắp lên ngôi cần phải nhớ rằng có thể yêu đàn bà nhưng đừng để họ chen vào việc triều chính.
Như trường hợp Võ Hậu dưới thời Cao Tôn, Vi Hậu giết chồng là Trung Tôn, con trai thứ ba của Võ Hậu, và các Công chúa con của võ Hậu đã lạm quyền thưởng phạt quần thần làm triều đình đảo lộn. Trong lịch sử không có triều đại nào lại đầy dẩy những vụ dâm loạn, ngoại tình, như dưới thời Trung Tôn và Duệ Tôn. Chắc hẳn Võ Hâu đã làm gương xấu cho con cháu.
Võ Hậu là một ví dụ hiển nhiên, và hơi cực đoan, về uy quyền của đàn bà. Bà không thua bất cứ bậc đế vương khanh tướng nào, về mặt trí tuệ, về cách dùng người, về đường lối linh động, và về sự bĩnh tĩnh. Tự bà đặt cho mình một lối đi đến tột đỉnh vinh quang.
Nhưng dù sao, ở một vài phương diện nào đó bà vẫn là một người đàn bà. Bà đã trả thù Vương Hậu một cách nhỏ mọn, vô nhân đạo, không khác loài cầm thú. Sự đố kỵ của bà đối với người đồng phái cũng đáng cho ta chú ý: Bà đã giết tất cả bốn người con dâu. Bà chuộng những tay phù thuỷ, đạo nhân, sư sải. Vì sự đòi hỏi của tình hình chính trị, bà đã đem hàng trăm vương tôn công tử, ra tàn sát. Sự vô nhân của bà phản ảnh bản tính độc ác của phái nữ, một hiện tượng mà đàn ông chúng ta thường suy ngẫm mà không hiểu nỗi. Việc bà cho người tạc một hình Phật cao hàng trăm thước, khiến tôi liên tưởng tới một em bé giàu óc tưởng tượng, đứng chơi búp bê. Vẫn biết trong mỗi người đàn bà đều có một chút trẻ con, nhưng nếu tính trẻ con đó kéo dài trong suốt tuổi già, trửng giỡn với hết nhà sư điên lại tới anh em họ Trương, với bao nhiêu giai thoại nhảm nhí, bịa ra để hí lộng quỉ thần, thì quả thực chúng ta phải lắc đầu.
“Âm” và “Dương” phải bỗ khuyết cho nhau. Nếu một cái thịnh quá, một cúi suy quá, cuộc sống không thể tiến triễn tốt đẹp.
Gà mái không nên gáy, đàn bà không thể làm công việc của đàn ông.
Tôi đã khuyên các Hoàng tử như vậy.
Đàn bà sinh ra để tìm chúng ta. Chúng ta thoả mản họ và ngược lại. Đó là luật của tạo hoá. Nói cách khác, nếu chúng ta là cá thì họ là người đi câu. Họ dùng đũ các thứ mồi để nhử chúng ta. Họ ước muốn một chỗ đứng trên trường đời, và sống một cuộc sống ấm no, an lạc. Để đạt mục đích, phương tiện duy nhất của họ là đàn ông.
Một vị thái tử sắp lên ngôi cần phải nhớ rằng có thể yêu đàn bà nhưng đừng để họ chen vào việc triều chính.
Hồi 1
Vua Thái Tôn và Mị Nương
Sau hai mươi ba năm trị vì, vua Thái Tôn nằm hấp hối trên giường bệnh tại một nơi ẩn dật trong cảnh sắc u nhàn của miền đồi núi với cây cỏ tốt tươi. Ấy là nơi nghĩ ngơi của vua vào mùa hè, chỉ cách kinh đô có một khoảng thung lủng nên thơ và một dòng suối trong veo chảy róc rách từ trên đỉnh đồi xuống tận khu ngoại thành phía Nam. Dãy đồi chạy dài mãi và lẫn vào rặng Thái Bạch ở đằng xa. Nơi Vua nghĩ là một vùng đồi núi cao khoảng năm trăm thước, so với thành phố phía dưới, hoàn toàn vắng vẽ và biệt lập với thế giới bên ngoài.
Cung điện nơi Vua nghĩ rất đơn sơ, mộc mạc như những ngôi nhà nghỉ mát thường được cất lên với những vật liệu bằng gỗ lấy từ một toà điện cổ khác. Thích đơn sơ là bản tính của nhà vua. Là người đã dựng ra nhà Đường. Nhà vua không bao giờ thích những lầu đài tráng lệ, nguy nga.
Khi thắng được vua nhà Tuỳ, ông sửa sang lại cung điện cũ để ở. Ông biết rằng muôn dân rất nghèo, đã chịu lầm than trong bao nhiêu năm chinh chiến. Xây cung điện mới sẽ tốn phí rất nhiều của cải và sức lao động của dân. Ông chỉ xây một ngọn tháp ở trong cung để tưởng niệm hai mươi bốn vị hiệp sĩ đã cùng ông chiến đấu gian khổ để khôi phục giang sơn và mang lại hoà bình cho bờ cõi.
Ông mắc bệnh lỵ kinh niên, đã chửa trị nhiều nhưng chỉ giảm sút chứ chưa bao giờ dứt hẳn.
Càng ngày ông càng hốc hác, tiều tuỵ. Khi được năm mươi hai tuổi, ông cảm thấy mình kiệt lực, không còn sống được bao lâu nữa. Trước kia ông từng là một kiện tướng có tinh thần đồng đội rất cao, một nhà lãnh đạo thiên tài nỗi tiếng về lòng nhân và tính tình bình dị tự nhiên. Ông thường thẳng thắn phê bình thuộc hạ cũng như nghe thuộc hạ phê bình chính ông. Bên cạnh ông là những hiền thần có nghĩa khí và biết trọng danh dự. Họ đều hết lòng kính mến ông. Bản thân ông đã xông tên đụt pháo, cầm đầu chiến dịch đánh Cao Ly (Đại Hàn).
Với một số tướng tài, ông đã phá tan liên bang Thổ Nhỉ Kỳ ở phía Bắc và mở rộng bờ cõi về phía Tây tới tận biên giới Turkestan gần biển Caspienne. Các tướng khác của ông đã tấn công phía Bắc Ấn Độ, và buộc xứ Nepal phải triều cống.
Ông có dáng bộ tự nhiên, không kiểu cách, và phía sau bộ ria cứng như thép có thể treo một cây cung lên đó mà không rớt. Người ta tìm thấy nơi ông một tấm lòng thương người vô bờ bến. Chính lòng thương người đó đã đem lại sức mạnh cho nhà Đường. Ông rất được lòng dân và nhờ đó mà về sau nhà Đường suýt mất lại có cơ khôi phục được.
Triệu quốc công Trương Tôn Vô Kỵ luôn luôn ở bên cạnh Vua khi Vua hấp hối.
Vô Kỵ không những là em ruột của bà Hoàng hậu nhân từ đã qua đời, mà còn là vị hiệp sĩ số một trong đám hai mươi bốn vị được thờ tại bảo tháp trong cung. Thực ra ông luôn luôn ở bên cạnh Vua trong suốt ba mươi năm liền, từ hồi còn đi chinh chiến. Ông vừa là chiến lược gia vừa là cố vấn thân tín nhất của Vua.
Vua nói với ông:
– Ta có vài điều quan trọng muốn bàn với khanh.
Các thị vệ hiểu ý lui ra ngoài hết.
– Ta biết không còn sống được bao lâu nữa. Ta vẫn thường ấp ủ mấy điều…
– Tâu Chúa Công hôm nay thánh thể bất an nhưng rồi mai mốt…
– Không đâu, ta biết lắm. Ta sắp chết. Khi ta chết rồi, phải chôn ta cùng với ái hậu của ta. Điều ta muốn hơn hết là khanh hãy tạc tượng tám con chiến mã của ta bằng đá và đặt chúng ở lối vào lăng. Chắc khanh đã biết chúng tên gọi.
Vô Kỵ thoáng thấy vẽ tươi cười trên mặt Vua.
– Hạ thần sẽ tuân hành thánh ý.
– Đôi khi ta cảm thấy chúng thương ta và hiểu ta hơn những người xung quanh.
Trong những ngày sắp tới Hoàng nhi (Cao Tôn) sẽ cần đến khanh rất nhiều. Nó là một người nhân từ, chỉ phải cái hơi yếu đuối, bị tình cảm chi phối và còn trẻ quá. Ta lấy làm hài lòng là vợ nó cũng thuộc dòng Tôn thất rất nết na, khiêm hoà và đoan chính. Ta không cần người đàn bà thông minh, sắc xảo. Một ông vua đã có quá nhiều chuyện bên ngoài để đối phó, trong nhà cần phải cho yên lành. Ta chết đi mà lòng vẫn chẳng yên Hoàng nhi còn trẻ quá, khanh hãy ráng lo cho nó. Khanh hãy lại gần đây.
Vô Kỵ tiến lại ngồi bên giường Vua.
Vua thì thầm:
– Lý Thuần Phong đã nhắc nhở ta mà trước kia ta không tin. Trong hai tháng ở đây, ta đã để ý mọi chuyện. Võ Mị Nương làm ta lo quá. Thị đã hầu hạ ta rất tận tâm, luôn luôn tỏ ra lanh lợi, mau mắn và đàng hoàng. Nhưng sau lưng ta đang có nhiều chuyện xảy ra.Gần đây ta bắt gặp ánh mắt khác lạ của Hoàng nhi với thị. Lời Lý Thuần Phong không phải là vô cớ. Khanh còn nhớ con ngựa chứng bờm nâu không? Không ai có thể cởi nó được. Vậy mà tối hôm nọ Mị Nương nói với ta thị có cách cởi được. Ta hỏi cách nào, thị trả lời: Bệ hạ hãy cho thiếp một cây roi sắt, một cái búa và một con dao nhọn. Nếu thiếp dùng roi đánh nó không được, thiếp sẽ dùng búa đập nó, nếu cũng không được, thiếp sẽ thọc dao vào cổ nó.
Ta không hiểu thị nói thế là đùa hay thật, nhưng một người đàn bà trẻ tuổi có thể thốt ra những câu nói như vậy thì thật đáng sợ. Đó đâu phải là cách làm thuần ngựa. Vậy mà khi thị nói, vẻ mặt thị vẫn thản nhiên như việc đó có thể làm dễ dàng.
Vô Kỵ hỏi một cách thận trọng:
– Tâu Chúa Công, giữa hai người có tình ý gì với nhau không?
– Rất có thể.
Muốn đưa thị ra khỏi hoàng cung thì dễ lắm, chỉ việc đuổi nàng về quê mà không cần nói lý do, hay gửi thị vào chùa thì không lo gì nữa.
Theo lệ, các cung phi, thị nữ đã hầu hạ vua không được thành thân với bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng đây không phải là luật. Nhiều người đã đi lấy chồng sau khi vua chết, trừ trường hợp có lời thề như một số người đã làm.
Sau một phút đắn đo, vua Thái Tôn nói:
– Ta không đành tâm giết Mị Nương như Lý Thuần Phong đã khuyên. Y là người biết rõ huyền cơ của tạo hoá nhưng không hiểu rõ tình cảm trong lòng người. Hãy gọi Mị Nương vào đây để ta thử lòng thị xem sao.
Trong khi chờ người đi gọi Mị Nương, Thái Tôn hỏi:
– Lý Tịch đã đi trấn nhậm miền Tây Bắc chưa?
– Tâu Chúa Công, y đi từ mấy hôm trước, ngay khi được chiếu chỉ.
– Tốt lắm. Chắc y thắc mắc tại sao ta lại phải y đi. Y đã tuân lệnh không cần biết lý do, điều đó làm ta hài lòng.
Sau hai mươi ba năm trị vì, vua Thái Tôn nằm hấp hối trên giường bệnh tại một nơi ẩn dật trong cảnh sắc u nhàn của miền đồi núi với cây cỏ tốt tươi. Ấy là nơi nghĩ ngơi của vua vào mùa hè, chỉ cách kinh đô có một khoảng thung lủng nên thơ và một dòng suối trong veo chảy róc rách từ trên đỉnh đồi xuống tận khu ngoại thành phía Nam. Dãy đồi chạy dài mãi và lẫn vào rặng Thái Bạch ở đằng xa. Nơi Vua nghĩ là một vùng đồi núi cao khoảng năm trăm thước, so với thành phố phía dưới, hoàn toàn vắng vẽ và biệt lập với thế giới bên ngoài.
Cung điện nơi Vua nghĩ rất đơn sơ, mộc mạc như những ngôi nhà nghỉ mát thường được cất lên với những vật liệu bằng gỗ lấy từ một toà điện cổ khác. Thích đơn sơ là bản tính của nhà vua. Là người đã dựng ra nhà Đường. Nhà vua không bao giờ thích những lầu đài tráng lệ, nguy nga.
Khi thắng được vua nhà Tuỳ, ông sửa sang lại cung điện cũ để ở. Ông biết rằng muôn dân rất nghèo, đã chịu lầm than trong bao nhiêu năm chinh chiến. Xây cung điện mới sẽ tốn phí rất nhiều của cải và sức lao động của dân. Ông chỉ xây một ngọn tháp ở trong cung để tưởng niệm hai mươi bốn vị hiệp sĩ đã cùng ông chiến đấu gian khổ để khôi phục giang sơn và mang lại hoà bình cho bờ cõi.
Ông mắc bệnh lỵ kinh niên, đã chửa trị nhiều nhưng chỉ giảm sút chứ chưa bao giờ dứt hẳn.
Càng ngày ông càng hốc hác, tiều tuỵ. Khi được năm mươi hai tuổi, ông cảm thấy mình kiệt lực, không còn sống được bao lâu nữa. Trước kia ông từng là một kiện tướng có tinh thần đồng đội rất cao, một nhà lãnh đạo thiên tài nỗi tiếng về lòng nhân và tính tình bình dị tự nhiên. Ông thường thẳng thắn phê bình thuộc hạ cũng như nghe thuộc hạ phê bình chính ông. Bên cạnh ông là những hiền thần có nghĩa khí và biết trọng danh dự. Họ đều hết lòng kính mến ông. Bản thân ông đã xông tên đụt pháo, cầm đầu chiến dịch đánh Cao Ly (Đại Hàn).
Với một số tướng tài, ông đã phá tan liên bang Thổ Nhỉ Kỳ ở phía Bắc và mở rộng bờ cõi về phía Tây tới tận biên giới Turkestan gần biển Caspienne. Các tướng khác của ông đã tấn công phía Bắc Ấn Độ, và buộc xứ Nepal phải triều cống.
Ông có dáng bộ tự nhiên, không kiểu cách, và phía sau bộ ria cứng như thép có thể treo một cây cung lên đó mà không rớt. Người ta tìm thấy nơi ông một tấm lòng thương người vô bờ bến. Chính lòng thương người đó đã đem lại sức mạnh cho nhà Đường. Ông rất được lòng dân và nhờ đó mà về sau nhà Đường suýt mất lại có cơ khôi phục được.
Triệu quốc công Trương Tôn Vô Kỵ luôn luôn ở bên cạnh Vua khi Vua hấp hối.
Vô Kỵ không những là em ruột của bà Hoàng hậu nhân từ đã qua đời, mà còn là vị hiệp sĩ số một trong đám hai mươi bốn vị được thờ tại bảo tháp trong cung. Thực ra ông luôn luôn ở bên cạnh Vua trong suốt ba mươi năm liền, từ hồi còn đi chinh chiến. Ông vừa là chiến lược gia vừa là cố vấn thân tín nhất của Vua.
Vua nói với ông:
– Ta có vài điều quan trọng muốn bàn với khanh.
Các thị vệ hiểu ý lui ra ngoài hết.
– Ta biết không còn sống được bao lâu nữa. Ta vẫn thường ấp ủ mấy điều…
– Tâu Chúa Công hôm nay thánh thể bất an nhưng rồi mai mốt…
– Không đâu, ta biết lắm. Ta sắp chết. Khi ta chết rồi, phải chôn ta cùng với ái hậu của ta. Điều ta muốn hơn hết là khanh hãy tạc tượng tám con chiến mã của ta bằng đá và đặt chúng ở lối vào lăng. Chắc khanh đã biết chúng tên gọi.
Vô Kỵ thoáng thấy vẽ tươi cười trên mặt Vua.
– Hạ thần sẽ tuân hành thánh ý.
– Đôi khi ta cảm thấy chúng thương ta và hiểu ta hơn những người xung quanh.
Trong những ngày sắp tới Hoàng nhi (Cao Tôn) sẽ cần đến khanh rất nhiều. Nó là một người nhân từ, chỉ phải cái hơi yếu đuối, bị tình cảm chi phối và còn trẻ quá. Ta lấy làm hài lòng là vợ nó cũng thuộc dòng Tôn thất rất nết na, khiêm hoà và đoan chính. Ta không cần người đàn bà thông minh, sắc xảo. Một ông vua đã có quá nhiều chuyện bên ngoài để đối phó, trong nhà cần phải cho yên lành. Ta chết đi mà lòng vẫn chẳng yên Hoàng nhi còn trẻ quá, khanh hãy ráng lo cho nó. Khanh hãy lại gần đây.
Vô Kỵ tiến lại ngồi bên giường Vua.
Vua thì thầm:
– Lý Thuần Phong đã nhắc nhở ta mà trước kia ta không tin. Trong hai tháng ở đây, ta đã để ý mọi chuyện. Võ Mị Nương làm ta lo quá. Thị đã hầu hạ ta rất tận tâm, luôn luôn tỏ ra lanh lợi, mau mắn và đàng hoàng. Nhưng sau lưng ta đang có nhiều chuyện xảy ra.Gần đây ta bắt gặp ánh mắt khác lạ của Hoàng nhi với thị. Lời Lý Thuần Phong không phải là vô cớ. Khanh còn nhớ con ngựa chứng bờm nâu không? Không ai có thể cởi nó được. Vậy mà tối hôm nọ Mị Nương nói với ta thị có cách cởi được. Ta hỏi cách nào, thị trả lời: Bệ hạ hãy cho thiếp một cây roi sắt, một cái búa và một con dao nhọn. Nếu thiếp dùng roi đánh nó không được, thiếp sẽ dùng búa đập nó, nếu cũng không được, thiếp sẽ thọc dao vào cổ nó.
Ta không hiểu thị nói thế là đùa hay thật, nhưng một người đàn bà trẻ tuổi có thể thốt ra những câu nói như vậy thì thật đáng sợ. Đó đâu phải là cách làm thuần ngựa. Vậy mà khi thị nói, vẻ mặt thị vẫn thản nhiên như việc đó có thể làm dễ dàng.
Vô Kỵ hỏi một cách thận trọng:
– Tâu Chúa Công, giữa hai người có tình ý gì với nhau không?
– Rất có thể.
Muốn đưa thị ra khỏi hoàng cung thì dễ lắm, chỉ việc đuổi nàng về quê mà không cần nói lý do, hay gửi thị vào chùa thì không lo gì nữa.
Theo lệ, các cung phi, thị nữ đã hầu hạ vua không được thành thân với bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng đây không phải là luật. Nhiều người đã đi lấy chồng sau khi vua chết, trừ trường hợp có lời thề như một số người đã làm.
Sau một phút đắn đo, vua Thái Tôn nói:
– Ta không đành tâm giết Mị Nương như Lý Thuần Phong đã khuyên. Y là người biết rõ huyền cơ của tạo hoá nhưng không hiểu rõ tình cảm trong lòng người. Hãy gọi Mị Nương vào đây để ta thử lòng thị xem sao.
Trong khi chờ người đi gọi Mị Nương, Thái Tôn hỏi:
– Lý Tịch đã đi trấn nhậm miền Tây Bắc chưa?
– Tâu Chúa Công, y đi từ mấy hôm trước, ngay khi được chiếu chỉ.
– Tốt lắm. Chắc y thắc mắc tại sao ta lại phải y đi. Y đã tuân lệnh không cần biết lý do, điều đó làm ta hài lòng.
No comments:
Post a Comment